Tthứ nhất, việc bất đồng quan điểm nếu kéo dài dai dẳng cho thấy có một vấn đề lớn chưa được hoặc không giải quyết được. Bài luận của William Harvey về sự tuần hoàn máu hay sách của William Gilbert về nam châm cũng không phải là tác phẩm toán học. Một số điều Plato và Aristotle nói tương tự nhau, một số lại khác nhau, nhưng dù họ có nhất trí hoàn toàn với nhau thì họ cũng không thể viết hai cuốn sách giống hệt nhau vì họ là những con người khác biệt.
Cuộc sống luôn tiếp diễn, còn truyện thì không. Nhưng trong trường hợp đó, bạn sẽ biết được có lẽ cuốn sách chẳng có gì quan trọng, bởi ngay phần giới thiệu cũng không nói lên được điều gì. Đọc lướt là tiến trình khởi đầu giúp bạn phân biệt đâu là vỏ và đâu là nhân.
Mục 5, 6, 7 Nói về việc điều chỉnh Hiến pháp, vị thế của Hiến pháp như một bộ luật tối cao và những điều khoản dùng để phê chuẩn Hiến pháp. Nhiều người đánh đồng phê bình với phản đối. Ông nói: Một điểm là một vật không được phân chia thành bộ phận.
Tuy nhiên, hình thành một thói quen khác với việc biết những quy tắc của một môn nghệ thuật. Thứ hai, trong sân khấu Hy Lạp, các nhân vật nam bi kịch thường đi một loại ủng khiến họ cao thêm vài xentimet, nhưng những diễn viên tham gia nhóm Chorus (những người hát và múa diễn giải các sự việc của vở kịch) thì không đi loại ủng này. Như vậy, cuốn sách lý thuyết đó cũng có những kết luận thực tiễn.
Nó còn giúp ta giữ cho trí óc sống và phát triển. Nó đưa ra những sáng kiến bằng cách giúp bạn vượt qua những khó khăn ban đầu mà ai cũng gặp phải khi đối diện với những cuốn sách cổ điển. Kiểu độc giả thứ hai không đặt câu hỏi và không có câu trả lời.
Tất cả những điều trình bày ở trên đầu dẫn đến một điểm là bạn chỉ có thể nói mình đã đọc tác phẩm một cách hiệu quả khi bạn hoàn thành được nó. Vì thế, bạn cần phải phân biệt các câu hỏi thật sự mang tính triết học và các câu hỏi khác mà một triết gia có thể bàn đến. Thông thường, bạn có thể hiểu được một số vấn đề mà không cần tìm hiểu sâu về toán học như trường hợp đọc sách của Newton.
Những gì ông đã gắng sức cơ bản là khoác lên triết học bộ áo quần của toán học, đem lại cho nó sự chắc chắn và cấu trúc chính thống như Euclid đã làm với hình học trước đó 2. Nhưng cũng sẽ là vô ích nếu cố đọc hay học thuộc cho kỳ hết một cuốn bách khoa toàn thư. Nhưng ông cũng thường xuyên yêu cầu người đọc đánh giá xem những điều ông nói có đúng với kinh nghiệm của bản thân họ không.
Những cuốn sách như vậy thường khá hay mặc dù không có độ tin cậy cao như tiểu sử cuối cùng. Bạn sẽ không theo được tính liền mạch và trình tự nội dung cuốn sách nếu ngay từ đầu đã phải tra quá nhiều từ. Nhưng đối với thơ ca thì không như vậy.
Ta có thể lý giải tương tự với một cuốn sách về kinh tế học. Để kiến thức mang tính thực tế, chúng ta phải biết chuyển chúng thành nguyên tắc hoạt động, từ việc biết đó là trường hợp nào sang việc biết phải làm gì để đạt được mục tiêu trong trường hợp đó. Hoặc với sách lịch sử, nếu bạn muốn khám phá ra sự thật của quá khứ thì bạn phải đọc rất nhiều cuốn sách về thời kỳ đó thay vì chỉ đọc một quyển.
Nó cần phải được hoàn thành bằng việc phê bình, đánh giá sách. Không giống sách hướng dẫn, sách triết học quy phạm dùng các từ phổ biến mô tả phương thức nên sử dụng để đạt các mục tiêu này. Họ biết họ có phải học cách phối hợp các quy tắc với nhau thành thạo như thế nào.