Do đó, nhà khoa học xã hội phải tiếp tục chiến đấu với những thuật ngữ riêng của mình trong suốt tác phẩm của ông và sự chiến đấu đó đã gây ra vấn đề cho độc giả. Ví dụ, tiêu đề sách lịch sử luôn có những nét đặc trưng như có từ lịch sử xuất hiện, nếu không thì những từ còn lại thường báo cho độc giả biết cuốn sách này viết về chuyện đã xảy ra. Bạn có thể kể lại kinh nghiệm nào của bản thân mà nhận định đó miêu tả, hoặc chỉ ra mức độ phù hợp giữa nhận định của tác giả với thực tế trải nghiệm của bạn không? Bạn có thể minh hoạ cho chân lý đã được phát biểu bằng những ví dụ cụ thể hay không? Tưởng tượng ra một trường hợp khả thi cũng hiệu quả không kém việc nêu ra một tình huống thật.
Đặc biệt, nó dành cho những ai đọc sách với mục đích chính là mở rộng tầm hiểu biết của mình. Mặc dù Tolstoy không phải là nhà sử học mà là một tiểu thuyết gia, nhưng nhiều nhà sử học cũng có chung quan điểm này với ông, đặc biệt là trong xã hội hiện đại. Bạn không thể tìm thấy các thuật ngữ trong từ điển dù chất liệu để tạo nên thuật ngữ có sẵn trong đó.
Vì vậy Euclid gọi chúng là khái niệm chung. Bạn càng tỏ tường về những luận điểm của mình thì bạn càng ít đánh giá sai quan điểm của người khác. Chúng ta phải học ngôn ngữ hai lần.
Bạn hãy coi thế giới giả tưởng đó là nhà mình, hiểu nó như thể bạn có mặt tại mỗi phân cảnh, hãy là một thành viên trong thế giới giả tưởng, sẵn sàng làm bạn với các nhân vật và có thể đặt mình vào các tình tiết với niềm cảm thông sâu sắc và hành động, chia sẻ như một người bạn thật sự. hãy bắt mình theo kịp tốc độ của bàn tay. Gibbon cũng không có những thông tin thực tế nhất định về ảnh hưởng của sự sụp đổ thành Rome.
Tất nhiên, các tác phẩm văn học giả tưởng, từ thơ ca đến truyện và đặc biệt là kịch cũng có nhiều điều để độc giả học hỏi nhưng không giống với cách mà chúng ta học từ sách khoa học và triết học. Không có sự giúp đỡ nào khác ngoài trí óc. Nhưng bây giờ bạn phải đọc sách của nhiều tác giả và chưa chắc họ sẽ sử dụng các từ khoá hay các thuật ngữ giống nhau.
Văn phong cách ngôn: Văn phong cách ngôn cũng là một kiểu trình bày triết học đáng chú ý, mặc dù nó không quan trọng như những hình thức kia. Khi đọc một tác phẩm triết học, những gì chúng ta quan tâm chính là các câu hỏi triết học chứ không phải câu hỏi khoa học hay lịch sử. Tác giả sách thực hành có thể viện đến nhiều yếu tố để thuyết phục người đọc rằng các quy tắc nêu trong sách là hợp lý hoặc minh họa sự hợp lý đó bằng cách cho người đọc thấy được cách thức hoạt động của chúng trong trường hợp cụ thể.
Cũng như từ điển, tất cả các cuốn bách khoa toàn thư đều là công cụ giáo dục và hàm chứa thông tin. Sai lầm lớn nhất bạn có thể mắc phải khi áp dụng các quy tắc này là công nhận sự tồn tại của mối liên hệ 1-1 giữa các yếu tố ngôn ngữ và các yếu tố tư duy hoặc kiến thức. Những người coi hội thoại là một cuộc chiến đấu chỉ có thể giành phần thắng bằng cách đóng vai kẻ phản đối - phản đối đến cùng bất kể đúng sai.
Sự chần chừ của độc giả là phản ứng đối với sự thất bại của tác giả trong việc giải quyết hoàn chỉnh vấn đề. Hãy đọc nhanh cuốn sách khó nhất để chuẩn bị đọc tốt trong lần thứ hai. Cách tốt nhất là bạn dùng những từ khác hẳn nhưng vẫn diễn đạt đúng ý người viết.
Đơn vị logic mà quy tắc 7 hướng tới là lập luận - một chuỗi những nhận định, cái nọ bổ trợ cho cái kia. Một luật sư thiếu kinh nghiệm muốn vượt qua những kỳ thi luật phải đọc một số văn bản theo cách nào đó để được điểm cao. Tuy nhiên, những mô tả đó vẫn quan trọng vì câu chuyện của Thucydides có ảnh hưởng tới phần lịch sử tiếp theo của nhân loại.
Không thể liệt kê thấu đáo mọi ý kiến về vấn đề nhưng người đọc vẫn phải cố gắng hoàn thành nó. Không ai đặt câu hỏi Bài thơ đó viết về điều gì?. Cũng có thể, văn phong này được ưa thích nhờ tác phẩm Pensees của Pascal (tất nhiên, Pascal không hề có ý định để tác phẩm của mình trở thành những câu nói ngắn và bí hiểm.